Nhà ở Trung Quốc cơ bản có thể phân làm một số loại như: nhà ở kiểu quy củ (lạc viện), kiểu lầu cao và kiểu hang động. Trong tất cả các hình thức, kiểu quy củ là loại nhà phổ biến nhất ở Trung Quốc. Nhà ở kiểu quy củ xuất hiện sớm nhất vào thời Tần – Hán (221 – 220 TCN), Tứ Hợp Viện Bắc Kinh là đại diện điển hình cho kiểu nhà này. Hai loại nhà còn lại thì có đặc trưng địa hình rõ nét, là loại hình kiến trúc bảo tồn được đặc trưng kiến trúc nguyên thủy nhiều nhất.
Tứ Hợp Viện Bắc Kinh
Tứ hợp viện là không gian cư trú lý tưởng của người Trung Quốc truyền thống, có phòng ở, sân vườn, cửa chính, cửa phụ, có hành lang, phòng học, lại có phòng khách, bình phong, nhà kho, nhà bếp, những nhà giàu còn có xe ngựa v.v.. Tứ hợp viện là loại nhà ở khép kín; dùng những căn phòng, hành lang, tường bao để quây lại, chỉ có duy nhất một cửa thông ra ngoài, đóng cửa lại trở thành một góc trời riêng, có tính riêng tư rất lớn, vô cùng phù hợp để gia đình sinh sống.

Cửa chính của tứ viện
Do bị ảnh hưởng của ánh mặt trời, các gian phòng ở bốn hướng đều hướng về phía nam, vì vậy Tứ hợp viện đều lấy phòng ở phía bắc làm chính phòng, hai bên đông tây đứng sau gọi là sương phòng. Căn phòng quan trọng nhất trong Tứ hợp viện là chính phòng, bài vị và bàn thờ tổ tiên được đặt ở giữa chính phòng. Quy mô của chính phòng lớn hơn tất cả các phòng khác.

Các gian nhà trong Tứ hợp viện đều được sắp xếp dành cho chủ nhân theo thứ tự già trẻ lớn bé, những gian nhà khác bất luận ngang dọc hoặc cao thấp, trang trí cũng như xây dựng đều phải thấp hơn gian nhà chính. Kết cấu như vậy khiến cho gian nhà chính không những là trung tâm sinh hoạt của cả gia đình, mà còn là biểu tượng của đời sống tinh thần gia tộc.

Thổ lâu Phúc Kiến (nhà lầu đất Phúc Kiến)
Người xây dựng thổ lâu là những người Hán, vì tránh chiến loạn đã từ Trung Nguyên di cư xuống miền Nam vào 1.000 năm trước, những người dân tộc Hán này chủ yếu là người Hẹ. Vì xã hội bất ổn, thổ phỉ, đạo tặc hoành hành khắp nơi, nên kiểu kiến trúc này được dùng sinh hoạt cho gia tộc, có thể chứa hàng trăm người, là phương pháp phòng ngự bảo vệ an toàn cho gia tộc của người Hẹ.Thổ lâu có diện tích lớn, thông thường là ba đến bốn tầng, tổng chiều cao có thể lên tới 12 hoặc 13 mét, tường ngoài dày khoảng một đến hai mét được xây bằng đất sét. Thổ lâu Phúc Kiếntiêu biểu nhất có 3 loại: lầu tròn, lầu vuông và lầu ngũ phượng, ngoài ra còn có rất nhiều loại nhà có hình dạng khác lạ.


Lầu ngũ phượng có thể nói là hình thái xuất hiện sớm nhất của kiến trúc thổ lâu tỉnh Phúc Kiến. Trong lầu vuông và lầu tròn, ngoài tổ đường nằm tại vị trí chí cao vô thượng ra, hầu như không còn thấy được vết tích của tôn ti trật tự trong nội bộ gia tộc, toàn là những gian phòng ngủ lớn nhỏ như nhau nằm vây quanh bố cục trung tâm. Nhưng lầu ngũ phượng lại thể hiện rất rõ quan niệm luân lý xã hội “lễ nghi khác nhau, tôn ti trật tự rõ ràng, chủ thứ trên khác dưới, đó chính là lễ“, ở đây sự phân biệt đẳng cấp phòng ốc là rõ nét nhất, bố cục tạo hình của tòa lầu ngữ phượng như là bản sao của những lễ giáo Nho gia, chế độ luân lý phong kiến.


Kiến trúc nhà ở Huy Châu
Nhà cửa thôn làng ở Huy Châu được xây theo bố cục tựa non kề nước, khung cảnh thiên nhiên nên thơ.


Bố cục mặt bằng điển hình của cư dân Huy Châu là áp dụng hình thức khuôn viên giếng trời. Thông thường ngay bên trong lối vào cổng chính có một giếng trời, người dân địa phương gọi là “tứ thủy quy đường“, có nghĩa là tiền tài không chạy ra ngoài.

Huy Châu có nhiều thương gia, nhà ở đa số là phú thương xây dựng. Họ cho chạm trổ điêu khắc trên những cột nhà hoặc xà nhà trong gian nhà chính để phô trương thanh thế và sự giàu có, vì vậy nhà cửa Huy Châu nổi tiếng bởi “tam điêu” là khắc gỗ, khắc gạch và khắc đá.

Nhằm phòng chống hỏa hoạn từ nhà bên lan sang hoặc nhà mình lan sang nhà bên ảnh hưởng đến hàng xóm, họ đã cho xây dựng những bức tường ngăn lửa cao vời vợi và sự cao thấp không bằng phẳng của những bức tường này đã mang lại tính tiết tấu độc đáo cho nhà ở Huy Châu.

Nhà tre dân tộc Thái ở Vân Nam

Dân tộc Thái là một trong những dân tộc cổ xưa tại Vân Nam. Thôn trại dân tộc Thái thường phân bố trên những đồng cỏ rộng lớn và bên những dòng sông xanh trong, thuận tiện cho sản xuất, sinh hoạt và giặt giũ.

Mặt bằng nhà tre gần như là hình vuông, để thông gió, tỏa nhiệt và tránh ẩm, tầng trệt không ngăn vách, dùng làm nơi nuôi gia súc và chứa đồ đạc. Hành lang trước có mái che, xung quanh được rào bởi những lan can, không khí lưu thông, thoáng đãng, ánh sáng tốt, là nơi chủ nhân dùng để tiếp khách, hóng mát và sinh hoạt. Bên ngoài có sân phơi ngoài trời, dùng để đặt lu nước và phơi quần áo. Trong nhà là phòng sinh hoạt chung và phòng ngủ, trong phòng sinh hoạt chung có bếp lửa, dùng để nấu cơm và pha trà, và là nơi cả gia đình đoàn tụ.



Nhà hang Tây Bắc (Tây Bắc dao động)

Vùng trung du sông Hoàng Hà của Trung Quốc có một lớp đất vàng dễ đào khoét, đồng thời có tính năng tránh rét, giữ ấm, vì vậy người ta đã đào hang động để xây dưng kiểu nhà ở rất đặc biệt với cái tên dao động.
Dao động là một kiểu kiến trúc sinh thái tự nhiên hết mức có thể, nó dựa vào địa hình, không giống như những kiến trúc khác có hình dạng cụ thể, phong cách nghệ thuật của kiểu kiến trúc này được biểu hiện qua màu sắc, chất liệu của hoàng thổ và tính tinh xảo trong cấu trúc không gian nội bộ, mang nét thô sơ, đôn hậu, chất phác của không khí làng quê. Dao động gồm 3 loại lớn: nhà hang vách núi, nhà hang đất và cố dao.

Dao động tuy hình thức kiến trúc rất khác biệt so với những kiểu nhà ở khác, nhưng về mặt kết hợp không gian thì vẫn giữ truyền thống bố cục của nhà dân. Rất nhiều dao động đều lấy bắc dao (nhà nằm hướng bắc) làm chính, dùng làm nơi sinh hoạt hoặc phòng ngủ của trưởng bối, đông dao và tây dao làm phòng ngủ, nhà bếp hoặc nhà kho, phía nam ngoài lối ngoài ra còn thường dùng làm nhà vệ sinh, chuồng gia súc, v.v…, cổng chính đặt tại hướng đông nam, mối quan hệ không gian rất giống bố cục của tứ hợp viện.


Có thể thấy được rằng, cho dù là hình thức kiến trúc nhà ở và vật liệu xây dựng thay đổi thế nào đi nữa, nhưng bản chất của nó không hề thay đổi, vẫn là kiểu nhà có khuôn viên bên trong, đây là kết quả của việc chịu sự ảnh hưởng của hình thái xã hội tông tộc phong kiến cổ đại.